Pháp là gì?

Trong quá trình tìm hiểu Phật pháp, chúng ta hay bắt gặp danh từ “pháp”. Bởi vậy, việc hiểu ý nghĩa của từ “pháp”, là vấn đề then chốt để đi đến hiểu biết giáo lý của Đức Phật. Nhưng do sự học Phật thiếu hệ thống nên có nhiều người không hiểu đúng ý nghĩa của danh từ này. Điều đó làm ảnh hưởng không tốt đến sự nghiên cứu Phật pháp, và sự tu hành của chính bản thân.

Trong bài viết này, tôi xin cung cấp cho độc giả một số kiến thức về “pháp” trong phạm vi hiểu biết của bản thân.

1. Định nghĩa về pháp

Thông thường, người ta hay hiểu “pháp” như là “phương pháp”, ví dụ “pháp môn”. Thực tế, trong giáo lý, ý nghĩa của từ “pháp” rộng lớn hơn nhiều.

Nguyên thuỷ, “pháp” là phiên âm sang tiếng việt của từ Phạn: “DHAMMAR”. Dịch nghĩa theo tiếng Tầu là: “nhậm trì tự tánh, quỷ sinh vật giải”. Nghĩa là: “phàm cái gì mà tự nó giữ gìn đuợc hình tướng, tánh chất của nó, và làm cho người ta khi nhìn đến nó thì biết là nó, thì gọi là pháp”. Tóm lại: “pháp” là tất cả những gì thuộc về đối tượng bị nhận thức của ta.

2. Những khía cạnh để nhận biết một pháp 

Để nhận biết một pháp, ta có thể nhận biết nó qua ba khía cạnh là: thể – tướng -dụng (1).
Trong đó:
– Thể tức là chất cấu tạo nên pháp đó. Nó là bản chất, là lý tánh của pháp. ví dụ: thể của cái nhẫn vàng là chất vàng (Au).
– Tướng tức là hình tướng của pháp, mà khi ta nhìn vào tướng này thì biết nó là pháp. Tướng là biểu hiện, là sự tướng của pháp. Ví dụ: tướng của cái nhẫn vàng là mầu vàng và hình dáng của cái nhẫn. 
– Dụng: tức là công dụng, tác dụng của cái pháp đó. Ví dụ: “tác dụng của gió” làm cho lá rung, dụng của con dao là để thái thịt. Lưu ý rằng dụng ở đây có thể là công dụng đối với con người, ví dụ con dao dùng để thái thịt, nhẫn vàng là của cải,… nhưng nó cũng có thể không liên quan gì tới con người. Ví dụ tác dụng của gió, là làm rung lá cây. Dụng thì có tướng riêng của dụng, ví dụ tướng lá rung. Tướng của dụng không phải là tướng của pháp có dụng đó.

a. Thể

Tìm hiểu về “thể” của một pháp, tức là chúng ta tìm hiểu về vật chất cấu tạo nên chất đó. Thể có hai loại là: thể tương đối và thể tuyệt đối.

– Thể tương đối 

Thể này không phải là tự thể, không phải là thể thực. Mà bản thân thể này lại do các thể khác hợp thành, do vay mượn từ bên ngoài. Nó chỉ là thể giả do duyên hợp mà thành (tức là nó là một chỉnh thể thống nhất của nhiều thành phần) đối với thể này nó lại là một pháp có tướng, thể và dụng riêng, nó có thể bị hoại diệt. Ví dụ: Thể của cái nhẫn vàng là nguyên tử vàng (Au), nhưng các nguyên tử vàng lại do các hạt nhân và điện tử hợp thành. 
Đối với thể tương đối, một pháp có thể có nhiều thể, ví dụ: (cái xe đạp) hoặc một thể, ví dụ: (cái nhẫn vàng)

Thể tuyệt đối

Tức là tự thể, thực thể, không do các cái khác tạo thành. Thể tuyệt đối không phải là một pháp riêng biệt, nó không có tướng, và không sanh diệt. Nó là thể đầu tiên để cấu tạo nên tất cả các thể tương đối của các pháp.

Quá trình đi tìm thể tuyệt đối là quá trình chia tách vật chất đến các phần tử vật chất nhỏ nhất, không do các phần tử nhỏ hơn hợp thành. Quá trình này bộ môn vật lý gọi là quá trình đi tìm vật chất nguyên thuỷ (2), và thể tuyệt đối chính là vật chất nguyên thuỷ.

Theo kết quả của vật lý hiện nay, cứ chia tách vật chất đến cùng, thì ta có các hạt cơ bản. Nhưng cái gì cấu tạo nên các hạt cơ bản? 

Vấn đề ở đây là danh từ “hạt” được hiểu theo nghĩa như thế nào? 

Trong nghĩa cổ điển thì “hạt” là một khối vật chất choán chỗ trong một khoảng không gian có thể tích nào đó khác không. Và khi hạt di chuyển từ điểm A đến điểm B trong không gian, nghĩa là: nó là sự di chuyển của khối vật chất đó. ở đây không có sự thay đổi vật chất (thể), mà đó là sự lan truyền giao động của một môi trường truyền sóng (vật chất) nào đó, xung quanh vị trí cân bằng. Trong quá trình truyền sóng, không hề có sự chuyển di vật chất theo phương truyền sóng trong không gian.

Trong hạt thì có giới hạn, có sự phân cách, có sự gián đoạn của vật chất. Còn trong sóng thì không có giới hạn, không có sự phân cách, không có sự gián đoạn thực sự, của vật chất với nhau. Môi trường truyền sóng tức là thể tuyệt đối, hay còn gọi là chất Ete, là Vacuum (Chân không), hay là vật chất nguyên thuỷ. Nó là một môi trường liên tục thống nhất và đồng nhất với nhau. Nó không do các phần tử nhỏ hơn hợp thành, mà nó là một cá thể đon nhất, không sanh diệt, không thay đổi,… đạo Phật gọi nó dưới nhiều tên gọi khác nhau như: Tự tánh, Chân như,…

Các hạt cơ bản và tất cả các pháp, bao gồm cả các thể tương đối khác nhau, thậm chí cả chân không, chỉ là những biểu hiện khác nhau của “Tự thể” này trong những khoảng không – thời gian khác nhau mà thôi.

Do đó nếu xét trên thể thì tất cả các pháp đều chỉ là một pháp duy nhất, không có sự ngăn cách, gián đoạn và độc lập giữa các pháp (sự vật, hiên tượng) với nhau trong toàn thể vu trụ bao la này.

Đó chính là ý nghĩa của câu: “tất cả là một”, hay “vạn vật đồng nhất thể”.

Có một vấn đề chúng ta cần làm sáng tỏ thêm là: “Thể tuyệt đối” này có phải là “Thể tuyệt đối của các pháp” hay không?

Người ta thường dễ bị lầm lẫn giữa “Thể tuyệt đối” và “Thể tuyệt đối của các pháp”. Thực ra ở đây có một sự khác biệt lớn.

Bởi vì:

Khi ta nói đến “Thể tuyệt đối”, tức là ta nói đến “Thể tuyệt đối” trong tự thân của nó. Bất kể nó có phải là thành phần trong cấu trúc của các pháp (tức là nó cấu tạo nên các pháp) hay không?

Còn khi ta nói đến “Thể tuyệt đối của các pháp”, thì điều đó có nghĩa là ta quan tâm đến “Thể tuyệt đối”, nhưng “Thể tuyệt đối” này phải đáp ứng một điều kiện là: nó là thành phần trong cấu trúc của pháp.

Trên thực tế thì có “Thể tuyệt đối”, nhưng không có “Thể tuyệt đối của các pháp”. Thực ra mối quan hệ giữa “Thể tuyệt đối” và các pháp, chỉ là mối quan hệ giữa vật chất và hiện tượng. Nghĩa là: tất cả các pháp đều là biểu hiện của “Thể tuyệt đối”, trong những khoảng không gian và thời gian khác nhau mà thôi. Tất cả các pháp đều chỉ là hiện tượng, không có tự thể (tự tánh). Điều này ngược hẳn lại với quan niệm xưa nay về mối quan hệ giữa “Thể tuyệt đối” và các pháp, là: “Thể tuyệt đối” là thành phần cấu tạo nên các pháp – quan niệm này hoàn toàn sai lầm.

Để thấy rõ vấn đề này, chúng ta hãy tìm hiểu về mối quan hệ, và sự khác nhau giữa sự vật và hiện tượng.

Các sự vật như: hạt cơ bản, nguyên tử, phân tử, đất, đá, núi non, biển cả, người, vật, cho đến các hành tinh,… là những pháp có cấu trúc vật chất (tức là có “thể tương đối”). Và ta có thể nắm bắt, sở hữu đuợc.

Ngược lại, các hiện tượng như: sấm chớp, gió, mưa, dòng nước, sự lăn và sự đứng im của viên bi, các cảm xúc, cảm giác, hiểu biết, nhận thức,… là những pháp không có cấu trúc vật chất (tức là không có “thể tương đối”). Và ta không thể nắm bắt, sở hữu đuợc.

Quan sát kỹ ta thấy: các sự vật và hiện tượng luôn luôn đi đôi với nhau. ở đâu có sự vật, là ở đó có hiện tượng, và ngược lại. Sự vật tồn tại, là luôn luôn tồn tại trong những trạng thái vận động khác nhau (đứng im cung là một trạng thái vận động). Không thể có sự vật tồn tại một cách không không rời ngoài vận động đuợc. Các dạng vận động khác nhau của sự vật, và các biểu hiện khác nhau của nó (các dạng vận động), chính là các hiện tượng. Và vì thế: cũng không thể có sự tồn tại của hiện tượng bên ngoài sự vật đuợc.

Chính mối quan hệ gắn bó khắng khít này giữa sự vật và hiện tượng, trong một số trường hợp đặc biệt, đã tạo nên cho ta ảo giác dẫn đến một nhận thức sai lầm là sự vật cấu tạo nên hiện tượng.

Trường hợp thứ nhất: chất nước cấu tạo nên dòng nước.

Đây là một nhận thức hoàn toàn sai lầm. Bởi vì nếu ta xét một “phân tử nước” trong dòng nước đang chảy đó, ta không thể nói: “phân tử nước” cấu tạo nên “sự di chuyển của phân tử nước” đó đuợc. Mà ta chỉ có thể nói rằng: hiện tượng di chuyển của “phân tử nước” này, là một trạng thái đang vận động của nó. Cung vậy: dòng nước, thực chất là dòng di chuyển của tất cả các “phân tử nước” trong đó, theo một hướng với nhau. Nó là biểu hiện sự vận động chung của tất cả các “phân tử nước” mà thôi. Và ta không thể nói là nó do các “phân tử nước” cấu tạo nên đuợc.

Trường hợp thứ hai: ảo tưởng về một khối nước cố định đang di chuyển trên mặt nước.

Quan sát một lượn sóng lan truyền trên mặt nước giữa hai bản phẳng song song.

Ta thấy dường như có một khối nước cố định di chuyển trên mặt nước theo phương truyền sóng vậy. Theo như vậy thì khối nước này là một sự vật, đuợc cấu tạo bởi chất nước. Nhưng thực ra không phải vậy, chẳng có một khối nước cố định nào đang di chuyển trên mặt nước cả. Đó chỉ là hiện tượng sóng mà thôi. Nó là hiện tượng lan truyền của một lượn sóng trên mặt nước.Nhưng nói như vậy không có nghia là ta phủ nhận hoàn toàn không có một khối nước nào tồn tại trong lượn sóng đó.Tại bất cứ một thời điểm nào trong quá trình truyền sóng,ta đều có thể tìm thấy đuợc một khối nước nhất định trong lượn sóng đó.

Vậy thực chất vấn đề ở đây là gì?

Đó là một sự thay thế tuần tự, liên tục không gián đoạn (trơn) của các khối nước giống nhau vào nhau. Mỗi một khối nước chỉ tồn tại tức thời một cách tuyệt đối (tức là tồn tại trong khoảng thời gian liền ngay đó là một khối nước khác thay thế vào, rồi cứ thế tiếp tục,… không ngừng. Khi một khối nước này thay thế khối nước trước thì nó lệch đi một đoạn tương ứng. Do sự thay thế là trơn, nên sự dịch chuyển của nó cung là trơn (Chính điều này tạo ra cho ta ảo giác về sự di chuyển của một khối nước cố định trên mặt nước). Sự thay thế lẫn nhau của các khối nước đó, chính là hiện tượng sóng. Như vậy sự vật ở đây là các khối nước tồn tại tức thời tuyệt đối (tức là tồn tại trong khoảng thời gian 2). Còn hiện tượng là sự thay thế lẫn nhau liên tục của chúng.Ta không thể nói rằng:các khối nước cấu tạo nên sự thay thế đó đuợc. Còn một khối nước cố định đang di chuyển trên mặt nước, chỉ là ảo giác của ta do sự thay thế tuần tự, liên tục không gián đoạn của các khối nước giống nhau vào nhau mà thôi.Thực chất không có một khối nước cố định nào tồn tại cả.

Trên thực tế, một cách tuyệt đối thì tất cả các sự vật như hạt cơ bản, nguyên tử, phân tử, đất, đá, núi non, biển cả, người, vật, cho đến các hành tinh,… đều chỉ là các hiện tượng mà thôi.

Thật vậy! Tất cả các đồ vật lớn nhỏ, kể cả cơ thể người đều chỉ là những dòng chảy của các hạt cơ bản.

Cụ thể là chúng luôn luôn hấp thụ các hạt cơ bản từ môi trường bên ngoài vào, và bài tiết, bức xạ,… các hạt cơ bản khác từ chúng ra môi trường bên ngoài. Mà một dòng chảy của các hạt cơ bản như vậy, thì có khác gì dòng chảy của các hạt nước đâu? Làm sao mà ta có thể cho đó là sự vật đuợc, mà phải nói là hiện tượng mới đúng.

Sâu xa hơn nữa, ngay bản thân các hạt cơ bản, là thành phần cấu tạo nên các dòng chảy đó, cũng chỉ là hiện tượng sóng mà thôi.

Cũng giống như ví dụ về lượn sóng nước ở trên: Trong quá trình tồn tại của hạt cơ bản đó, ta chẳng thể tìm thấy một hạt cơ bản cố định nào di chuyển trong không gian và tồn tại trong thời gian. Mà ta chỉ có thể tìm thấy một hiện tượng là sự thay thế tuần tự, liên tục không gián đoạn (trơn) của các phần TTĐ (Thể tuyệt đối) khác nhau rời khỏi vị trí cân bằng tĩnh của chúng, mà thôi. Tất nhiên, tại một thời điểm tức thời  nào đó, trong quá trình xảy ra sự thay thế đó, ta luôn luôn tìm thấy một phần TTĐ cố định rời khỏi vị trí cân bằng. Nhưng ta không thể nói là phần TTĐ đó cấu tạo nên sự thay thế đó đuợc. Như vậy:chẳng có cái gì gọi là hạt cơ bản cả. Mà chỉ có những biểu hiện trong những khoảng không gian và thời gian khác nhau của cùng một “Thể tuyệt đối” mà thôi.

Tóm lại: ta thấy rõ là không có “Thể tuyệt đối của các pháp”. Tất cả các pháp là không có tự tánh (tự thể).

b. Tướng

Như đã nói, “tướng” là cái mà khi nhìn vào ta biết nó là nó. Hay nói cách khác thì tướng là đối tượng bị nhận biết của ta. Khác với khi xét trên thể tuyệt đối, không có sự ngăn cách, gián đoạn và độc lập giữa các pháp với nhau. Khi xét trên tướng ta lại thấy dường như có sự ngăn cách, gián đoạn và độc lập giữa các pháp với nhau. 

Thông thường đối với một pháp, ta có thể nhận biết nó qua 6 tướng, chia làm 3 cặp như sau:

Tổng tướng – Biệt tướng
Đồng tướng – Dị tướng
Thành tướng – Hoại tướng

Trước hết nói về cặp tổng tướng – biệt tướng: 

Tổng tướng của một pháp chính là tướng tổng thể, tổng quát của pháp đó. 
Còn biệt tướng của một pháp chính là tướng riêng biệt trong những khu vực không gian riêng biệt khác nhau của pháp đó.

Ví dụ: tướng chung của con sư tử là tổng tướng, còn tướng riêng trong các khu vực riêng biệt của nó như: đầu, chân, đuôi là biệt tướng.

Lưu ý rằng không phải tất cả các pháp ta đều nhận biết đuợc tổng tướng của nó, mà trên thực tế, có những pháp ta chỉ nhận biết đuợc biệt tướng của nó, mà không nhận biết đuợc biệt tướng của nó.

Ví dụ: “ nhãn thức”, ta chỉ nhận biết được “tướng phần”, tức là biệt tướng của nó mà thôi. Ta không nhận biết đuợc tổng tướng của nó, tức gồm cả tướng phần và kiến phần.

Kế đến, ta tìm hiểu về cặp đồng tướng – dị tướng: 

Đồng tướng tức là tướng giống nhau. 
Còn dị tướng là tướng khác nhau.

Ví dụ, ta có con sư tử vàng, thì tướng “vàng” là đồng tướng, còn tướng chân, đầu, đuôi,…. là dị tướng.

Lưu ý rằng một pháp có thể có đồng tướng trong toàn bộ pháp đó, nhưng cung có khi nó chỉ có đồng tướng trong những khu vực riêng biệt mà thôi.

Cuối cùng, ta tìm hiểu về cặp thành tướng – hoại tướng:

Mỗi một pháp, là sự hợp duyên của nhiều pháp thành phần (là chỉnh thể thống nhất của nhiều bộ phận thành phần). Mà mỗi pháp thành phần lại là những pháp có sự độc lập tự chủ riêng. Vì vậy ta có thể quan sát nó dưới 2 khía cạnh:
+ Khía cạnh thứ nhất là tổng thể, tức là hợp duyên của các pháp thành phần, ta có thành tướng của pháp tổng thể.
+ Khía cạnh thứ hai là ta không quan tâm đến tổng thể, mà quan tâm đến các pháp thành phần. Khi đó, mặc dù pháp tổng thể đang có, nhưng đối với ta, nó không có, đây chính là hoại tướng của pháp tổng thể.

Ví dụ: cơ thể người là một tổng thể của các tế bào. Mà mỗi tế bào là một cơ thể sống tự chủ. Nếu quan tâm đến ta với tư cách là một tổng thể của các tế bào, thì có ta tức là thành tướng. Nhưng nếu quan tâm đến các tế bào, thì không có ta nữa, tức là hoại tướng của ta.

Lưu ý rằng: “hoại tướng” không phải có sau khi pháp đó bị hoại, tức là “thành tướng” bị phá vỡ, mà nó có ngay khi “thành tướng” vẫn đang còn. Vấn đề là cách nhìn, nhìn theo cách này thì ta có thành tướng, còn nhìn theo cách khác thì ta có hoại tướng, chứ còn tự thân pháp đó thì nó vẫn thế. Đến lượt các pháp thành phần thì nó cung có “thành tướng”, và “hoại tướng” riêng. Nếu ta duy trì cách nhìn hoại tướng một cách tuyệt đối, thì ngay đây (đang hiện hữu) chẳng có một pháp nào cả, tất cả đều không, không có một pháp nào cả (hoại tướng). Đó là ý nghĩa của “tánh không”: tất cả các pháp vốn là không, không phải chờ duyên tan mới không.

Tướng đuợc trình bày ở trên là vọng tướng. Ngoài vọng tướng nói trên ra, các pháp còn có chơn tướng (tướng thực hay thực tướng). Chơn tướng của các pháp là: “vô tướng”, bởi vì nó rời ngoài sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (là tướng phần của thức) – Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là vọng tướng, nhưng lại là “tướng” mà ta có thể nhận biết đuợc (vì là đối tượng nhận biết của ta). Chơn tướng của các pháp thuộc về thực tại khách quan, còn vọng tướng thì lại phụ thuộc chủ quan của con người. Tại cùng một thời điểm, chơn tướng thì có một, còn vọng tướng lại có nhiều. Ta nhận biết về chơn tướng, thông qua vọng tướng của nó, nơi mỗi người (nếu độc giả muốn tìm hiểu kỹ hơn về mối quan hệ giữa chơn tướng, vô tướng và vọng tướng, xin đọc bài “Tìm hiểu ý nghĩa câu “bổn lai vô nhất vật” trong bài kệ của lục tổ Huệ Năng” và bài “Hai môi trường sống của con người và ý nghĩa triết học của nó”).

Sự phân loại pháp dựa theo tướng

Dựa theo tướng ta có thể phân loại pháp như sau:

– Pháp vô vi:

Ðây là pháp không có tướng, mà chỉ có thể và dụng. Nó không phải là đối tượng bị nhận biết của ta. Vì vậy, ta phải giả lập nó làm đối tượng bị nhận biết (giả lập tướng). Do vậy, nó chỉ là pháp giả lập, chứ không phải là pháp thực lập.
Ví dụ: Chân như, Tự tánh, Thể tuyệt đối,… ta có thể nhận biết đuợc nó qua dụng mà thôi.

– Pháp hữu vi:

Đối lại với pháp vô vi, đây là pháp có tướng, là đối tượng bị nhận biết của ta. Vì vậy pháp này là pháp thực lập. Ta có thể nhận biết đuợc nó trực tiếp qua tướng, và dụng. 

Pháp hữu vi lại có thể phân làm hai loại là tâm pháp và sắc pháp.
Tâm pháp: là pháp thuộc về tâm (vọng tâm) nó không phải là đối tượng bị nhận biết trực tiếp của 5 giác quan bên ngoài (mắt, tai, mui, lưỡi, thân). Đối với tâm pháp, các giác quan của ta không thể nhận biết đuợc tổng tướng của nó, mà chỉ có thể nhận biết đuợc các biệt tướng (tướng phần) mà thôi. Tâm pháp gồm 8 thức tâm vương (nhãn thức, nhi thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt na thức (ý căn), và a lại gia thức) và 51 pháp tâm sở.
Sắc pháp: Là tướng phần của tâm pháp. Nó chính là 6 trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Nó chính là đối tượng bị nhận biết trực tiếp của các giác quan. 
Sắc pháp có thể đuợc phân ra làm hai loại là:
Pháp hữu hình: là các pháp có hình tướng rõ ràng, mà có thể nhận biết đuợc. Ví dụ như: xanh, đỏ, trắng.., dài, dẹt, tròn..
Pháp vô hình: là pháp không có hình tướng rõ ràng, để ta có thể nhận biết đuợc ví dụ: không khí, gió, dòng điện,…

c. Dụng

Như đã nói ở trên, dụng tức là tác dụng, công dụng của pháp đó. Nó có thể là công dụng đối với con người, ví dụ dụng của cái nhẫn vàng là làm đồ trang sức, là tài sản. Nhưng nó cũng có thể là tác dụng của pháp đó mà chẳng dính líu gì đến con người, ví dụ dụng của gió là làm lá cây rung, làm nổi sóng trên mặt nước.
Có nhiều trường hợp, ta không thể nhận biết về một pháp nào đó thông qua tướng và dụng của nó, nhưng cũng có nhiều trường hợp ta không thể nhận biết về một pháp nào đó thông qua tướng của nó, mà chỉ có thể nhận biết nó qua dụng của nó mà thôi, bởi vì tướng của nó là tướng vô hình (pháp vô hình) như gió, điện, từ trường hoặc nó không có tướng (pháp vô vi) như: Chân như, Tự tánh.
– Nhờ tác dụng làm rung lá cây, thổi mát người mà ta biết đến gió.
– Nhờ tác dụng làm quạt quay, đèn sáng mà ta biết đuợc điện
– Nhờ tác dụng hút các cục sắt mà ta biết từ trường.
– Nhờ tác dụng hút các hạt điện tích mà ta biết điện trường.
– Nhờ tác dụng nhận biết các đối tượng và các hành mà ta biết đuợc chân như, tự tánh”.

3. Một số trường hợp dùng “pháp” đặc biệt.

a. Trường hợp thứ nhất.

“Pháp”: để chỉ Chân như, Tự tánh, tức là pháp thực, pháp tuyệt đối. Từ “pháp” hiểu theo nghĩa này, chỉ có trong kinh điển của phật giáo Bắc tông (đại thừa), mà không đuợc dùng trong Nam tông. ở đây, ta không thể hiểu nó theo định nghĩa thông thường (là đối tượng bị nhận biết) đuợc. Nếu hiểu theo nghĩa thông thường thì nó là pháp giả lập (pháp vô vi).

b. Trường hợp thứ hai.

“Pháp”: trong nghĩa là Giáo pháp mà Như lai (Phật thích ca) đã tìm ra, “Giáo pháp” trong tự thân của nó, dù Đức Phật có tìm ra hay không thì nó vẫn là nó. Đó là khổ, nguyên nhân gây ra khổ, sự diệt khổ, và con đường đua tới khổ diệt; Lý 12 nhân duyên; Lý vô ngã,…”

c. Trường hợp thứ ba.

“Pháp”: trong nghĩa là “Giáo pháp” mà Thế tôn (Phật thích ca) đã tuyên thuyết, tuyên bố lên bằng ngôn ngữ, văn tự, đuợc các đệ tử của ngài ghi chép lại trong Kinh điển. Đây không phải là “Giáo pháp” trong tự thân của nó (trường hợp thứ hai). Nhưng phù hợp với nhau.

d. Trường hợp thứ tư.

“Pháp”: trong nghĩa là pháp môn, đường lối tu tập.

Ghi Chú:

1. Không phải pháp nào cũng đầy đủ cả thể, tướng, dụng, mà có những pháp không có thể, mà chỉ có tướng dụng mà thôi. Thậm chí có những pháp ta chỉ biết qua dụng mà không nhận biết được qua tướng của chính nó, ví dụ: gió, dòng điện”..

2. Hiện nay các nhà vật lý trên thế giới vẫn chưa có một kết luận chắc chắn (chưa tìm ra) về vật chất nguyên thuỷ. Tuy vậy, vấn đề không phải là chưa tìm ra vật chất nguyên thuỷ, mà những kết quả của vật lý hiện đại, thì vật chất nguyên thuỷ đã lộ ra rõ ràng. Đó chính là: “vacum”, hay “ete”. Nhưng vì các nhà vật lý không chịu chấp nhận nó (vì phải thay đổi quan niệm cũ về vật chất nguyên thuỷ), mà họ muốn tìm vật chất nguyên thuỷ theo những tiêu chuẩn do chủ quan của họ áp đặt vào, không phù hợp với thực tế, không có trên thực tế nên không tìm ra mà thôi. Thực tế tôi vẫn giải quyết vấn đề một cách dễ dàng trong bài: “về trường thống nhất và vật chất nguyên thuỷ”.

Tác giả: Nguyễn Đức Quý – Thiền Việt Nam

Ấn chia sẻ, nếu bạn thấy bài viết này hữu ích cho ai đó đang cần!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Bài viết mới đăng

CẬP NHẬT THÔNG TIN VÀ CÁC KHOÁ HỌC THIỀN VIỆT NAM

Đăng kí nhận thông tin mới

DMCA.com Protection Status